Lịch sử Đảng Hạng

Tộc người Đảng Hạng ban đầu cư trú tại khu vực cao nguyên Tùng Phan thuộc tỉnh Tứ Xuyên ngày nay, sống nhờ vào chăn nuôi. Vào đầu thời nhà Đường, thủ lĩnh Đảng Hạng là Thác Bạt Xích Từ (拓跋赤辭) từng giúp đỡ Thổ Dục Hồn chống Đường, tuy nhiên Thổ Dục Hồn cuối cùng đã bị đánh bại. Sau đó, Thác Bạt Xích Từ quay sang trung thành với Đường, được Đường Thái Tông ban cho họ Lý, phong làm Tây Nhung châu đô đốc. Thời giữa của nhà Đường, do chịu áp lực từ Thổ Phồn, người Đảng Hạng được nhà Đường cho di chuyển đến Khánh Châu[chú 2] Những người Đảng Hạng ở lại đất cũ trở thành nô lệ của quý tộc Thổ Phồn, được gọi là người Nhị Dược (Wylie: mi nyak; ZWPY: མི་ཉག་, tiếng Trung: 弭藥人; bính âm: Mǐyàorén). Những người Đảng Hạng di cư về phía bắc phân thành tám bộ lạc. Thời Đường Đại Tông, do Thổ Phồn và người Đảng Hạng liên hiệp quấy nhiễu Đường, triều đình Đường lại đưa người Đảng Hạng thiên di đến khu vực phía bắc của Ngân Châu[chú 3], phía đông của Hạ Châu[chú 4] Khu vực Tuy Châu[chú 5] và Diên Châu[chú 6] cũng có một đợt thiên nhập lớn của người Đảng Hạng. Cuối thời nhà Đường (khoảng 873), bộ lạc Thác Bạt hùng mạnh hơn hẳn, thủ lĩnh Thác Bạt Tư Cung (拓跋思恭) của bộ lạc Thác Bạt cát cứ Hựu Châu[chú 7] và tự xưng là thứ sử. Năm 881, Thác Bạt Tư Cung do có công giúp nhà Đường dẹp loạn Hoàng Sào nên được Đường Hi Tông phong làm Hạ Châu tiết độ sứ, và ban cho họ Lý, phong làm Hạ quốc công.[3]

Đến đầu thời nhà Tống, giữa Hạ Châu của họ Lý và triều đình Tống nhiều lần phát sinh chiến tranh. Sau khi thủ lĩnh Lý Kế Phủng (李繼捧) quy hàng Tống, tộc nhân lại ủng hộ Lý Kế Thiên (李繼遷) làm thủ lĩnh để tiếp tục chống Tống. Năm 1005, thủ lĩnh Đức Minh thiết lập hòa bình với Tống. Tống Chân Tông ban họ cho Đức Minh, phong làm Hạ Châu thứ sử, đảm nhiệm chức Định Nan quân tiết độ sứ[3]. Năm 1031, Lý Nguyên Hạo kế vị cha, đến năm 1038 thì lập nên Tây Hạ.

Trong các nguồn bằng tiếng Đảng Hạng, đất nước này được gọi là phôn¹ mbın² lhi̯ə tha², tạm dịch là "Bạch Cao Đại Quốc" (白高大國), tức đại quốc gia cao quý và thuần khiết ([4] Mặc dù tên tiếng Hán này đôi khi cũng xuất hiện trong các nguồn bằng tiếng Đảng Hạng,[5] tên gọi thông dụng nhất của quốc gia này là "Đại Hạ" (大夏) trong các nguồn văn bản chữ Hán của Tây Hạ hay là "Hạ Quốc" (夏國) trong các nguồn của nhà Tống.[6] Sau này, người ta thường đề cập đến đất nước Đảng Hạng là "Tây Hạ" (西夏).

Do cha của người sáng lập Tây Hạ, tức Lý Đức Minh, không phải là một người cai trị quá thủ cựu, người Đảng Hạng bắt đầu tiếp thu ngày càng nhiều văn minh Trung Hoa, song họ không bao giờ đánh mất đi bản sắc nguyên bản của mình, điều này được chứng minh bằng một số lượng lớn các văn hiến còn lại của bản thân nhà nước Đảng Hạng. Tuy vậy, người sáng lập Tây Hạ là Lý Nguyên Hạo lại có suy nghĩ có phần thủ cựu hơn, ông đã tìm cách phục hồi và tăng cường bản sắc của người Đảng Hạng bằng việc ra lệnh thiết lập ra chữ Đảng Hạng chính thức và đặt ra các điều luật nhằm củng cố phong tục văn hóa truyền thống. Một trong các điều luật đó là lệnh cho các thần dân mặc y phục dân tộc truyền thống, và một điều luật khác quy định các thần dân Tây Hạ phải để tóc ngắn hoặc cạo đầu, tương phản với phong tục của người Hán lúc bấy giờ là để tóc dài và kết lại. Nguyên Hạo loại bỏ họ Lý do triều Đường ban, cũng loại bỏ họ Triệu do triều Tống ban, Nguyên Hạo nhận họ Đảng Hạng là "Ngôi Danh" (嵬名). Ông lập "Hưng Khánh" (興慶)[chú 8] làm quốc đô của Tây Hạ.

Đến thế kỷ 13, Thành Cát Tư Hãn thống nhất các bộ lạc ở vùng thảo nguyên phía bắc Mông Cổ và dẫn quân Mông Cổ thực hiện sáu loạt tấn công Tây Hạ trong một khoảng thời gian hơn 20 năm (1202, 1207, 1209–10, 1211–13, 1214–19, 1225–26). Trong loạt tấn công cuối cùng, Thành Cát Tư Hãn đã qua đời trên đất Tây Hạ. Sử liệu chính thức của người Mông Cổ thì nói rằng ông mất vì bệnh tật, trong khi có truyền thuyết nói rằng ông ta mất vì bị trọng thương trong trận chiến. Năm 1227, quốc đô Tây Hạ bị người Mông Cổ tàn phá, họ đã phá hủy các tòa nhà và các ghi chép viết rằng: tất cả đều bị thiêu cháy ngoại trừ tu viện. Tây Hạ Mạt Chủ Lý Hiện bị giết và hàng chục nghìn dân thường đã bị thảm sát. Tuy nhiên, nhiều gia đình người Đảng Hạng đã gia nhập vào đế quốc Mông Cổ. Một số người trong số họ đã chỉ huy quân Mông Cổ chinh phạt Trung Hoa. Sau khi thành lập nhà Nguyên, quân người Đảng Hạng được hợp nhất vào quân Mông Cổ trong các cuộc chinh phục miền trung và miền nam Trung Hoa sau đó.

Người Đảng Hạng được người Mông Cổ gọi là "Đường Ngột" (tangγud, 唐兀), thuộc loại người Sắc Mục (色目人) trong hệ thống phân loại của nhà Nguyên, do đó tách biệt họ với vùng Hoa Bắc (Hán nhân). Thời nhà Nguyên, một bộ phận người Đảng Hạng hoạt động rất mạnh, nổi tiếng nhất là Dương Liễn Chân Già (楊璉真珈), song sau đó họ dần dung hợp với các tộc người khác và biến mất khỏi lịch sử. Đến cuối thời Minh, có bằng chứng về sự hiện diện của các cộng đồng Đảng Hạng nhỏ tại các hành tỉnh An Huy và Hà Nam. Thành viên của hoàng tộc Tây Hạ đã di cư đến phía tây Tứ Xuyên, phía bắc Tây Tạng và thậm chí là đến Đông Bắc Ấn Độ, và trong một số trường hợp đã trở thành thủ lĩnh địa phương.[7][8][9] Những người Đảng Hạng sinh sống ở miền Trung Trung Quốc đã bảo tồn được ngôn ngữ của họ ít nhất là đến thế kỷ 16.

Cuối thời Minh, Lý Tự Thành đã lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa nông dân, thiết lập chính quyền Đại Thuận và tự xưng mình là hậu duệ của Lý Kế Thiên.[10] Một số học giả cũng xác định Lý Tự Thành là hậu duệ của tộc Đảng Hạng. Có một thuyết cho rằng người Sherpa là hậu duệ của người Đảng Hạng.[11]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đảng Hạng http://nm.cnr.cn/lywh/nmfg/200802/t20080229_504720... http://vip.book.sina.com.cn/book/catalog.php?book=... http://wenhua.eco.gov.cn/3/6/1/20090522/3176.html http://www.omniglot.com/writing/tangut.htm http://www.nx.xinhuanet.com/xixia/2005-07/06/conte... http://www.chinaknowledge.de/History/Song/xixia.ht... http://kaladarshan.arts.ohio-state.edu/exhib/sama/... http://kepping.net http://www.archnet.org/library/documents/one-docum... https://web.archive.org/web/20080225151631/http://...